Các phương pháp xử lý
Trong tự nhiên loại jadeit có màu đẹp để có thể sản xuất ra các sản phẩm trưng sức ngay là rất hiếm, chúng thường chứa các bao thể khác nhau, màu sắc thường không rõ ràng, hoặc trong quá trình khai thác, vận chuyển hoặc gia công chế tác chúng bị nứt vỡ. Tất cả các khiếm khuyết đó làm cho giá trị của chúng giảm đi rất nhiều hoặc nhiều khi là không được ưa chuộng và không có giá trị thương mại. Để khắc phục những khiếm khuyết đó con người đã nghĩ ra nhiều phương pháp khác nhau để xử lý nâng cao chất lượng. Các phương pháp thông thường nhất là tẩy và nhuộm màu.
Jat có thể được xử lý nâng cấp chất lượng bằng phương pháp nhuộm màu bởi các thuốc nhuộm khác nhau (thường là các chất nhuộm có màu xanh lục), hoặc bằng cách tẩy màu xấu đi và gắn kết bằng polyme. Ngọc jadeit trước và sau xử lý thường được gọi bằng các tên khác nhau:
- Ngọc tự nhiên: A - Jade
- Ngọc xử lý bề mặt: B - Jade
- Ngọc nhuộm màu: C - Jade
- Ngọc xử lý bề mặt và nhuộm màu: B+C Jade
A-Jade: Là loại ngọc jadeit hoàn toàn tự nhiên được khai thác và sử dụng trực tiếp để làm hang trang sức không có bất kỳ sự xử lý nâng cấp chất lượng nào ngoài quá trình gia công chế tác.
B-Jade: Là loại ngọc jadeit sau khi khai thác chúng thường có các khe nứt, vết vỡ chứa các bao thể và tạp chất màu đen, hoặc các bao thể có màu khác. Để loại bỏ các tạp chất này, đầu tiên khối ngọc được ngâm trong axit trong một thời gian dài để các tạp chất bị hoà tan hết, sau đó người ta dung polymer để hàn gắn vào các khe nứt đã bị axit ăn mòn đó. Loại ngọc này được gọi là tẩy và hàn gắn bằng polymer hay còn gọi là ngọc được xử lý bề mặt.
C-jade: Là loại ngọc mà khi khai thác lên chúng có màu xấu (màu sắc không đồng đều, sắc thái không rõ rang), người ta đã dùng các chất nhuộm có màu khác nhau để tạo nên màu của sản phẩm.
Phân biệt ngọc jadeit đã qua xử lý
Để phân biệt được ngọc jadeit đã qua xử lý bằng các phương pháp khác nhau cần thiết phải nhờ tới các chuyên gia có kinh nghiệm với sự trợ giúp của các thiết bị chuyên dụng. Các thiết bị thường dùng nhất là kính lọc màu Chelsea, phổ kế và kính hiển vi ngọc học.
Dụng cụ để nhuộm màu ngọc jadeit
- Dưới kính lọc Chelsea các đá nhuộm thường có màu đỏ hoặc hồng xỉn. Trong khi đó jat tự nhiên không bị đổi màu.
- Phổ hấp thụ là phương pháp có hiệu quả nhất trong việc xác định jat nhuộm màu. Jadeit bán trong, màu sáng cho phổ với vạch rất mạnh sắc nét ở rìa vùng tím, tại bước sóng 437nm. Ở những màu do nhuộm màu hoặc màu lục đậm vạch phổ này thường bị che lấp. Các loại jadeit tự nhiên thường cho các vạch phổ trong vùng đỏ dưới dạng 3 bậc tại các bước sóng 630, giữa 650 - 660 và gần 690nm. Còn các đá đã nhuộm màu thường cho một dải phổ trong vùng đỏ có tâm tại bước sóng 650 hoặc 640nm.
Phổ hấp thụ của jadeit nhuộm màu
- Trong đá nhuộm màu, màu thường phân bố tập trung theo các khe nứt, có khi thành đốm, đám, Tẩy chúng bằng bông gòn ngấm axit HCl hoặc axeton có thể thấy màu bị phai ra.
Hiện nay trên thị trường rất nhiều loại jat đã qua xử lý màu ở Hồng Kông, theo công nghệ tẩy màu bằng axit sau đó ép polime (bleached & impregnated jat). Phát hiện loại ngọc này là rất khó, tuy nhiên đôi khi những người có kinh nghiệm có thể phân biệt loại jat này qua một số dấu hiệu sau:
- Trong jat chưa xử lý thường có các đốm vết màu vàng, vàng nâu do các oxit, hydroxit Fe, trong khi trong jat xử lý các đốm này thường không còn.
- Màu của jat chưa xử lý thường là không đều, trong khi trong loại B màu đều hơn.
- Khi quan sát dưới độ phóng đại có thể thấy các hạt tinh thể jat chưa xử lý thường có ranh giới bằng phẳng, rõ ràng trong khi ở loại xử lý các hạt thường có dấu hiệu bị gặm mòn (do ngâm trong axit)
- Jat tự nhiên không bị kích màu thường phát huỳnh quang dưới sóng dài, trong khi đó đá đã qua xử lý màu thường trơ.
Để xác định chính xác loại jat này người ta phải dùng các phương pháp rất đắt tiền là phổ hồng ngoại và kính hiển vi điện tử.
Đá giả, đá tương tự và cách nhận biết
Mặc dù cho đến này người ta vẫn xếp chung jadeit và nephrit vào một nhóm do có các đặc điểm bên ngoài rất giống nhau, song việc phân biệt 2 khoáng vật này với nhau không khó khăn lắm. Chúng có cấu tạo bên trong khác nhau: nephrit cấu tạo dạng sợi lộn xộn còn jadeit cấu tạo hạt. Tỷ trọng và chiết suất của nephrit nhỏ hơn của jadeit.
Phân biệt jat thật và jat giả
Jat được làm giả dưới dạng thủy tinh, chất dẻo nhuộm màu xanh, ghép jat thực với vật liệu khác (đá ghép)... Đê phân biệt jat người ta dựa vào các đặc điểm sau:
- Vì thủy tinh và chất dẻo là chất dẫn nhiệt kém nên ta cảm giác ấm khi cầm vào nó, hoặc ép lên da.
- Đối với những mẫu thủy tinh bán trong, người ta có thể phát hiện thấy những bọt khí tròn hoặc dài.
- Chất dẻo thường mềm và rất nhẹ.
Phân biệt jat với các đá tương tự
Jat có thể bị nhầm với các loại đá sau: các khoáng vật màu xanh thuộc nhóm thạch anh, emơrôt và clorit đục, hydrogroxula, vezuvian, secpentin, prenit, amazonit...
Tính chất của jat và các đá tương tự
Tên gọi
|
Độ cứng
|
Chiết suất
|
Tỷ trọng
|
Cát khai,
vết vỡ
|
Nhận xét chung
|
Jadeit
|
6,5-7
|
1,66-1,68
|
3,30-3,38
|
|
Chỉ đọc được một giá trị n = 1,66
|
Nephrit
|
6-6,5
|
1,66-1,68
|
2,90-3,00
|
|
Chỉ đọc được một giá trị n = 1,61
|
Groxularit-hydrogroxula (granat)
|
7
|
1,73
|
3,57-3,73
|
|
Chiết suất, tỷ trọng và độ cứng cao hơn ngọc jat
|
Idocra Californit
|
6,5
|
1,71-1,72
|
3,35-3,40
|
|
Chiết suất cao hơn ngọc jat
|
Secpentin (nhuộm màu và tự nhiên)
|
2,5-6,0
|
1,50-1,57
|
2,50-2,79
|
|
Chiết suất, tỷ trọng và độ cứng hình thường thấp hơn ngọc jat. Chịu tác dụng của axit HCl và H2SO4
|
Smitxonit
|
5
|
1,62
|
4,35
|
|
N=1,62 nhưng có thể xác địnnh được lưỡng chiết suất trên khúc xạ kế qua lọc phân cực
|
Soxurit
|
6,5-7,0
|
1,70-1,71
|
2,95-3,40
|
|
n cao hơn ngọc jat
|
Vecdit
|
2-3
|
1,57
|
2,60-2,90
|
|
n và độ cứng thấp hơn ngọc jat
|
Silimanit
|
6,0-7,5
|
1,66-1,68
|
3,23-3,25
|
|
Đo chính xác tỷ trọng và lưỡng chiết suất cho phép phân biệt với ngọc jat
|
Thủy tinh và kim loại phủ men
|
4-6
|
1,54-1,55
|
2,54-2,70
|
Vết vỡ gợn sóng trên chanxedon; vết vỡ thủy tinh trên quaczit
|
n và tỷ trọng nhỏ hơn ngọc jat
|
Pseudophit
|
2,5
|
1,57
|
2,7
|
|
Các tính chất thường nhỏ hơn của jat
|
Aganmatolit (đá nhà chùa)
|
2,5-3,5
|
1,55-11,59
|
2,75-2,8
|
|
Giống đá bọt. Các tính chất đều nhỏ hơn của jat
|
Emơrôt
|
7,5
|
2,7
|
1,57
|
Vết vỡ thủy tinh
|
Chiết suất và tỷ trọng nhỏ hơn jat
|
Fluorit
|
4
|
1,43
|
3,18
|
Thường có cát khai
|
|
Fenspat Amazonit Anbit
|
6-6,5
|
1,52-1,57
|
2,50-2,70
|
Thấy cát khai tại các nơi bị mẻ
|
n và tỷ trọng nhỏ hơn ngọc jat
|
Prenit
|
6-6,5
|
1,62-1,65
|
2,80-2,95
|
|
Thường có màu lục vàng nhạt, có thể trắng đến xám lục nhạt. Thường trong suốt hơn nephrit. Khi tinh khiết có thể chịu tác dụng của HCl
|
Biruza (tự nhiên và xử lý)
|
3-5
|
1,60-1,61
|
2,60-2,80
|
Vết vỡ xỉn
|
Rất đục, ánh xỉn, các tính chất đều nhỏ hơn jat
|
Varixit (nếu bị nhuộm màu)
|
5-6
|
1,58-1,59
|
2,50-2,60
|
|
Tất cả các tính chất đều nhỏ hơn của jat
|
Opal
|
5
|
1,40-1,45
|
2,20
|
Vết vỡ thủy tinh
|
Tất cả tính chất đều nhỏ hơn của jat
|
Canxit
|
3
|
1,48-1,65
|
2,70
|
|
Bị axit tác dụng. Các tính chất đều nhỏ hơn của jat
|
Aragonit (tự nhiên và nhuộm màu)
|
3,5-4
|
1,53-1,69
|
2,90-2,95
|
|
Bị axit tác dụng. Các tính chất đều nhỏ hơn của jat, trừ tỷ trọng
|
Steatit (tan hoặc đá xà phòng)
|
1-1,5
|
1,54-1,59
|
2,70-2,80
|
|
Các tính chất đều nhỏ hơn jat, nhất là độ cứng
|
Pectolit
|
4,5-5
|
1,59-1,63
|
2,74-2,88
|
|
Tỷ trọng và độ cứng nhỏ hơn jat. Chịu tác dụng của axit
|
Malachit
|
3,5
|
1,65-1,90
|
3,30-4,10
|
|
Độ cứng nhỏ hơn jat. Rất it khi có cấu tạo dải
|
Các đá nhóm thạch anh
Các đá nhóm thạch anh có thể nhầm với jat là cryzopra, chanxedon màu lục (Cr)... Các đá này có tỷ trọng và chiết suất thấp hơn của jat. Nguyên tố tạo màu của cryzopra là Ni vì vậy trong phổ hấp thụ của nó ta thấy vạch yếu không có vị trí xác định ở vùng da cam - đỏ của phổ. Các loại đá còn nguyên tố tạo màu là Cr nên trong phổ sẽ thấy những vạch mảnh ở vùng đỏ. Tuy nhiên vì jat và các đá thuộc nhóm chanxedon là các đá ẩn tinh (cryptocrystaline) nên các vạch phổ của chúng không được rõ như của các đá đơn tinh khác. Trong phổ của loại chanxedon ta có thể thấy vạch kép rất rõ, trong khi đó trong phổ của chanxedon nhuộm màu xanh lục thì lại thấy dải phổ gồm 3 vạch (1 vạch kép).
Vì emơrôt thường là các đơn tinh thể nên các vạch phổ của nó rõ nét hơn của jat, hơn nữa emơrôt có tính đa sắc tương đối mạnh. Tỷ trọng và chiết suất của emơrôt thấp hơn của jat.
Chú ý: đôi khi jat màu xanh lục đẹp cũng cho phổ với vạch kép ở vùng màu đỏ và những vạch yếu hơn ở vùng da cam giống phổ của emơrôt.
Smitxonit
Smitxonit là loại cacbonat màu xanh lục đôi khi rất giống jat. Tuy nhiên dựa vào độ cứng của nó (5), tỷ trọng (4,35) có thể phân biệt được xmixonit với jat. Hơn nữa vì smitxonit là cacbonat nên nó có phản ứng với dung dịch axit HCl loãng. Tuy vậy, khi thử cần phải thận trọng: chỉ được nhỏ 1 giọt axit rất nhỏ lên bềmặt của viên đá, quan sát bằng kính lúp và sau đó phải lau sạch càng nhanh càng tốt.
Ngoài ra, smitxonit có độ lưỡng chiết rất mạnh. Người ta có thể quan sát được sự thay đổi giá trị chiết suất từ 1,62 đến 1,81 trên khúc xạ kế.
Hydrogroxula xanh lục
Trên thị trường, một số loại đá xanh dùng làm đồ trang sức (nhẫn, chuỗi hạt...) được gọi là jat kèm theo tên địa phương nơi tìm ra nó, ví dụ như jat Transvaal ở vùng Nam Phi. Loại đá này có màu xanh lục, hồng, da cam - đỏ có thể nhầm nó với nephrit. Nhưng các nhà ngọc học đã xác định loại đá này là groxula (nhóm granat) có chứa 5% nước, nên được gọi là hydrogroxula. Ngoài ra, người ta còn nhầm jat với một loại đá có tên là đá có tên là vezuvian lục (hay còn gọi là californit).
Để phân biệt jat với vezuvian và groxula người ta thường dựa trên giá trị tỷ trọng. Tỷ trọng của groxula nguyên chất là 3,6; của vezuvian là 3,32. Webster đã tìm thấy rằng tỷ trọng của hầu hết các đá giống jat loại này (jat của vùng Transvaal) dao động trong khoảng 3,36 - 3,57. Tỷ trọng của các đá xanh lục của vùng Pakistan dao động trong khoảng 3,28 - 3,52. Trong nghiên cứu các đá xanh lụ của vùng Pakistan người ta nhận thấy những viên đá với tỷ trọng thấp thường cho phổ với dải đậm ở bước sóng 461nm (vùng lam) và dải yếu hơn ở bước sóng 530nm. Cả hai dải phổ này đều đặc trưng cho vezuvian. Trong phổ của loại đá màu lục với tỷ trọng cao thường không thấy 2 dải phổ này, mà lại nhìn thấy rõ dải phổ ở bước sóng 630nm (vùng da cam), dải phổ này đặc trưng cho groxula xanh lục. Groxula xanh lục dạng khối thường cho huỳnh quang dưới tia X. Sự phát sáng vẫn xảy ra thậm chí ngay cả khi mẫu đá được tạo thành phần lớn tử vezuvian.
Serpentin
Bovenit, một loại serpentin màu xanh lục được dùng để làm giả jat. So với các loại serpentin khác. bovenit là loại khoáng vật có độ cứng và độ trong suốt cao hơ. Tỷ trọng của bovenit là 2,59, chiết suất 1,55 tuy nhiên bovenit từ các mỏ khác nhau có thành phần khác nhau nên các giá trị này có thể thay đổi. Đặc điểm nhận biết bovenit là những nhóm, chuỗi bao thể clorit. Loại bovenit bán trong có tên là "tangiwai" có nghĩa là nước mắt. Ở Trung Quốc, người ta đã tìm thấy những mẫu bovenit tương đối lớn.
Loại serpentin mềm hơn nhưng có màu xanh oliu đẹp được gọi là wiliamxit, tỷ trọng và chiết suất của nó có phần lớn hơn của bovenit.
Ngoài ra pseudophit, một loại đá thuộc nhóm clorit có độ cứng thấp hơn canxit, cũng được bán ra trên thị trường với tên gọi "jat Styrian - Styrian jade".
Các khoáng vật và đá giống jat
- Prenit có màu xanh oliu, phớt vàng và cấu trúc dạng sợi tỏa tia, Prenie thường bán trong, đôi khi hoàn toàn trong suốt, không màu.
- Amazonit đôi khi rất giống jat. Tuy nhiên amazonit có màu lục phớt xanh da trời và cấu trúc đặc trưng của fenspat (cát khai).
- Soxurit là loại khoáng vật đã bị biến đổi của californit và được tạo thành trong quá trình phá hủy plagiocla (fenspat).
- Thạch anh avanturin mày xanh lục đôi khi được gọi là jat Ấn Độ. Tuy nhiên người ta có thể nhận ra nó bằng các bao thể fucsit (mica Cr màu xanh lục).
- Verd-antiqut là đá hoa serpentin. Để phân biệt loại đá này người ta dựa trên phản ứng của nó với axit, vạch phổ rất mạnh ở bước sóng 645nm.
- Vecdit (verdite) là một loại vật liệu màu xanh lục đậm được tạo thành từ sét có chứa mica crom. Độ cứng thấp (3) và hình dáng bên ngoài của nó giúp ta phân biệt nó với nephrit. Tỷ trọng của vecdit là 2,9 và chiết suất 1,58.
- Mo-xit-xit (maw-sit-sit) là loại đá màu xanh lục thường có chứa những vết dải màu đậm. Thành phần chính của loại đá này là anbit (albite), có màu do Cr. Người ta phân biệt nó với jat bằng chiết suất (1,55), tỷ trọng (2,77) và độ cứng (6).
- Fluorit xanh lục được phân biêt với jat bằng độ cứng thấp (4) và phát quang màu tím dưới tia cực tím.